![]() |
| Hơn 50% doanh nghiệp thể hiện ý định đầu tư vào Việt Nam trong 2-3 năm tới. |
Sau gần 4 thập kỷ thành công trong FDI, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lịch sử để đón dòng vốn chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo...
Nguồn vốn FDI luôn chiếm vị trí quan trọng, đóng góp lớn vào sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp (KCN) Việt Nam trong suốt thời gian qua. Đến nay, số lượng các KCN ngày càng tăng và giữ vai trò then chốt đối với tăng trưởng kinh tế cả nước.
Hiện nay, Dự thảo Nghị định mới về quản lý KCN và khu kinh tế (KKT) đang được Bộ Tài chính xây dựng để thay thế Nghị định số 35/2022/NĐ-CP. Trong đó, đề xuất sửa đổi mạnh mẽ các quy định về ưu đãi đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
Tại Diễn đàn “Hoàn thiện chính sách thu hút làn sóng FDI thế hệ mới vào các khu công nghiệp” vừa được tổ chức, ông Nguyễn Xuân Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Việt - Trung (VCBC) cho biết, nhiều đoàn doanh nghiệp Trung Quốc đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng khi tiếp cận thị trường Việt Nam, theo đó, họ đến để khảo sát, tìm đối tác phân phối, thử nghiệm thương mại trước khi quyết định đầu tư sản xuất quy mô lớn.
Ông Tùng cho biết, có tới hơn 50% doanh nghiệp mà VCBC tiếp xúc thể hiện ý định đầu tư vào Việt Nam trong 2-3 năm tới, con số này, cho thấy một nguồn cầu thật sự chứ không phải đơn thuần là quan sát thị trường.
Các cơ hội sẽ đến từ chuyển giao công nghệ, nâng cấp dây chuyền sản xuất tới đầu tư vào các ngành công nghệ cao như ô tô điện, robot, và công nghiệp phụ trợ.
Ông Tùng cũng nhấn mạnh xu hướng doanh nghiệp Trung Quốc mang theo cả chuỗi cung ứng và hệ sinh thái doanh nghiệp của họ khi đầu tư, điều này có thể tạo ra các “cụm” sản xuất nhanh chóng và nâng cao năng lực xuất khẩu cho địa phương.
Theo bà Nguyễn Phương Nga, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn CNCTech, các tập đoàn đa quốc gia tìm kiếm những điểm đến có hệ sinh thái sản xuất ổn định, hạ tầng tin cậy, và mức độ sẵn sàng cao để đảm bảo tính linh hoạt của chuỗi cung ứng. Điều này đặt ra yêu cầu rất lớn đối với hạ tầng KCN tại các nước tiếp nhận dòng vốn mới như Việt Nam.
Bà Nga cho rằng, hạ tầng KCN ngày nay không còn dừng lại ở việc cung cấp mặt bằng đã san lấp hay nhà xưởng đơn thuần. Các nhà đầu tư FDI thế hệ mới, đặc biệt trong ngành công nghệ cao, điện tử, cơ khí chính xác, đòi hỏi một hệ sinh thái toàn diện bao gồm: hạ tầng tiêu chuẩn quốc tế, logistics hiện đại, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp đầy đủ, khả năng tích hợp công nghệ, và đặc biệt là các tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn ESG.
Chính từ yêu cầu ngày càng cao đó, các tập đoàn như CNCTech đã đẩy mạnh việc xây dựng chiến lược nhằm phát triển một hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh, đáp ứng đồng bộ những tiêu chuẩn này trong 5–10 năm tới.
Trong đó, việc định hướng xây dựng một hệ sinh thái công nghiệp xanh – thông minh được dựa trên bốn nền tảng và hai trụ cột cốt lõi: sản xuất - công nghệ - công nghiệp và logistics.
Từ hướng đi này, bà Nga cho biết, CNCtech phát triển mô hình hạ tầng tích hợp với hơn 24 dịch vụ, đáp ứng trọn vẹn nhu cầu của nhà đầu tư từ chuẩn bị dự án đến vận hành nhà máy. Điều này cho phép các nhà đầu tư FDI rút ngắn thời gian đi vào hoạt động xuống chỉ còn 1–3 tháng.
Bên cạnh đó, bà Nga cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng vào các dự án đầu tư tập trung vào chất lượng và đạt được các chứng chỉ quốc tế cần thiết.
Bên cạnh cơ hội, các doanh nghiệp cho rằng, việc thu hút nhà đầu tư vào khu công nghiệp vẫn có những thách thức không hề nhỏ, nổi bật là khoảng cách về nguồn nhân lực kỹ thuật.
Theo ông Nguyễn Xuân Thanh Tùng, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đánh giá rằng lao động địa phương hiện chưa đáp ứng ngay được yêu cầu cho các nhà máy công nghệ cao.
Do đó, theo ông Tùng, vấn đề đào tạo, liên kết nhà trường với doanh nghiệp và xây dựng cơ sở huấn luyện chuyên ngành được đặt lên hàng đầu.
Một rào cản khác là cơ chế phối hợp giữa chính quyền địa phương, chủ đầu tư khu công nghiệp và các hiệp hội Trung Quốc. Để thu hút những dự án lớn hơn nữa, cần chính sách minh bạch, đầu mối hỗ trợ rõ ràng và những cơ chế thuận lợi cho doanh nghiệp song phương, từ thủ tục đến ưu đãi hạ tầng và bảo đảm về chuỗi cung ứng.
Ông Tùng nhận định, để tận dụng cơ hội, Việt Nam cần vừa chủ động kết nối, vừa đầu tư vào con người và hoàn thiện khung chính sách. Nếu làm được, dòng vốn đầu tư nói chung, đầu tư từ Trung Quốc nói riêng có thể trở thành động lực để các KCN Việt Nam chuyển mình lên tầng giá trị mới.