| Doanh nghiệp Việt sẵn sàng đón làn sóng đầu tư từ Trung Quốc Macstar Group: Doanh nghiệp tiên phong chuyển đổi xanh ngành logistics |
Còn mắc kẹt trong vai trò gia công
Theo số liệu từ Cục Thống kê (Bộ Tài chính), trong 10 tháng năm 2025, sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì đà phục hồi mạnh mẽ. Đặc biệt, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 8,3% của cùng kỳ 2024. Cùng thời điểm, lực lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng cho thấy sự tăng trưởng nhanh chóng với hàng trăm nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường. 10 tháng đầu năm 2025, có 255,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm trước
![]() |
| Bức tranh giá trị nội địa lại ẩn chứa nhiều rủi ro khiến doanh nghiệp mắc kẹt ở vai trò gia công |
Dù tăng trưởng sản xuất công nghiệp và số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong 10 tháng năm 2025 cho thấy động lực mạnh mẽ, nhưng bức tranh giá trị nội địa lại ẩn chứa nhiều rủi ro khiến doanh nghiệp mắc kẹt ở vai trò gia công.
Cả nước hiện có gần 7.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, tập trung chủ yếu ở 5 lĩnh vực chính gồm cơ khí, ô tô, điện - điện tử, dệt may và công nghệ cao. Trong số này, gần 300 doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI lớn như Samsung, Honda, Toyota, LG. Thuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa của nhiều ngành vẫn còn thấp, chỉ đạt khoảng 30 - 40%, chưa đạt được kỳ vọng 50 - 60% mà Chính phủ đề ra.
Mô hình gia công truyền thống đang đặt nhiều doanh nghiệp vào thế thụ động, với quy trình nhận đơn, sản xuất theo bản vẽ và tiêu chuẩn của đối tác nước ngoài, nên khả năng định giá, thương lượng và quyết định chiến lược thị trường còn hạn chế. Khi giá nguyên liệu, cước vận tải hoặc tỷ giá biến động, doanh nghiệp thường không thể chuyển chi phí sang người mua và phải chịu áp lực biên lợi nhuận ngày càng mỏng.
Sự phụ thuộc vào một vài khách hàng lớn khiến rủi ro của doanh nghiệp cao hơn, đơn hàng có thể giảm đột ngột khi khách hàng tái cấu trúc chuỗi cung ứng hoặc chuyển nguồn cung sang nước khác có chi phí thấp hơn. Khả năng mất đơn hàng lớn không chỉ giảm doanh thu mà có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng nội bộ, gây tình trạng tồn kho, phát sinh chi phí.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất quy mô nhỏ và vừa còn thiếu đầu tư hệ thống vào nghiên cứu trao đổi (R&D), thiết kế và sở hữu trí tuệ, khiến sản phẩm do doanh nghiệp bán ra luôn mang dấu ấn thương hiệu đối tác, mà không có tài sản vô hình để nâng biên lợi nhuận lâu dài.
Nguồn lực tài chính và nhân lực của doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thường gặp khó khăn khi huy động vốn cho dây chuyền tự động hoá, cho chương trình đào tạo kỹ sư thiết kế hay cho M&A để mua công nghệ. Thiếu kỹ sư thiết kế và nhà quản trị sản xuất có kinh nghiệm khiến ý tưởng nâng cấp sản phẩm khó hiện thực hoá.
Ngoài ra, rủi ro về biến động chuỗi cung ứng toàn cầu và chính sách, điển hình như tăng thuế nhập khẩu, rào cản kỹ thuật, yêu cầu môi trường, cũng là những yếu tố tác động khiến lợi thế chi phí thành bất lợi nếu doanh nghiệp không kịp nâng cấp để đáp ứng tiêu chuẩn mới. Đồng thời, việc còn thiếu chiến lược thương hiệu và kênh bán hàng trực tiếp khiến doanh nghiệp bỏ lỡ giá trị gia tăng từ khâu tiếp thị, bán lẻ và dịch vụ hậu mãi.
Để nâng tầm giá trị cho doanh nghiệp sản xuất
Trong bối cảnh những rủi ro của mô hình gia công ngày càng bộc lộ rõ, yêu cầu đặt ra cho doanh nghiệp Việt không chỉ là duy trì sản xuất, mà phải chủ động tìm lời giải để bước lên nấc thang giá trị cao hơn. Để thoát khỏi vòng lặp gia công - lợi nhuận thấp, các doanh nghiệp cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp mang tính nền tảng và dài hạn, tập trung vào đầu tư, nâng cao chuỗi giá trị, nhân lực…
Thứ nhất, doanh nghiệp cần tận dụng tối đa các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, đồng thời tái cấu trúc việc phân bổ nguồn lực để ưu tiên cho các hoạt động tạo giá trị lõi như thiết kế sản phẩm, R&D và đổi mới công nghệ. Đây là nền tảng giúp doanh nghiệp chuyển từ sản xuất theo đơn đặt hàng sang làm chủ công nghệ, tạo ra sản phẩm có hàm lượng tri thức và giá trị cao hơn.
Thứ hai, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, không chỉ mua vật tư trong nước mà còn phát triển chuỗi cung ứng phụ trợ có hàm lượng công nghệ cao như linh kiện, vật liệu đặc thù, gia công tinh - những mắt xích quyết định phần lớn hàm lượng giá trị. Doanh nghiệp lớn cần “kéo” nhà cung ứng nhỏ lên qua hợp đồng dài hạn, chuyển giao kỹ thuật và liên kết sản xuất. Sự phối hợp giữa doanh nghiệp chế tạo và phụ trợ sẽ gia tăng nội địa hóa, giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng biên lợi nhuận.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường chuyển đổi số. Đồng thời, áp dụng sản xuất thông minh (IoT, tự động hoá, dữ liệu lớn) giúp tăng năng suất, kiểm soát chất lượng và rút ngắn thời gian đưa sản phẩm lên thị trường.
Thứ tư, đa dạng hóa thị trường và tham gia sâu vào chuỗi giá trị quốc tế theo hướng bền vững. Không chỉ dựa vào xuất khẩu theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp cần chủ động xây dựng thương hiệu, chứng nhận chất lượng (ISO, tiêu chuẩn xanh) và tận dụng các Hiệp định thương mại: CPTPP, EVFTA, RCEP… để đi sâu vào phân khúc có giá trị cao.
Thứ năm, một số giải pháp tài chính cho doanh nghiệp gồm: (i) vốn mạo hiểm cho startup công nghệ sản xuất; (ii) trái phiếu doanh nghiệp cho dự án nâng cấp công nghệ; (iii) khuyến khích liên doanh, M&A để mua bản quyền công nghệ hoặc thâu tóm chuỗi cung ứng phụ trợ.
Cơ hội để doanh nghiệp Việt vượt khỏi “bẫy gia công” đang rõ ràng hơn bao giờ hết, khi lực đẩy từ tăng trưởng công nghiệp và sự phục hồi mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp tạo nên nền tảng chuyển đổi mới. Tuy nhiên, con đường nâng cấp giá trị không thể đến từ những điều chỉnh cục bộ, mà đòi hỏi một chiến lược tổng thể. Chỉ khi doanh nghiệp, Nhà nước, các định chế nghiên cứu và hệ thống tài chính cùng hành động một cách đồng bộ, Việt Nam mới có thể dịch chuyển vai trò từ “công xưởng gia công” sang trung tâm sản xuất giá trị cao, tận dụng được lợi thế quy mô và khẳng định dấu ấn bền vững trong chuỗi giá trị toàn cầu.