![]() |
| Doanh nghiệp cần gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của EVFTA. Ảnh: Internet |
Tỷ lệ tận dụng ưu đãi xuât xứ VFTA có chiều hướng tích cực
Theo số liệu ước tính, kể từ khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8/2020, thương mại song phương ghi nhận tăng trưởng ổn định và mạnh mẽ. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU tăng từ 55,4 tỷ USD năm 2020 lên 68,3 tỷ USD năm 2024.
Ở góc độ của Việt Nam, EVFTA mang lại lợi ích rất tích cực cho hoạt động xuất nhập khẩu, tạo đòn bẩy cho nhiều nhóm hàng chủ lực của chúng ta khai thác thị trường này.
Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp, ngành hàng tận dụng quy tắc xuất xứ trong EVFTA khá tích cực, trong đó nhiều ngành hàng như nông sản, thủy sản, da giày... đã, đang tận dụng tốt.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc thực thi EVFTA vẫn đối mặt với không ít thách thức; tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của EVFTA thời gian qua chưa đạt được như kỳ vọng, do còn có các mặt hàng chưa đáp ứng được các quy tắc xuất xứ của Hiệp định.
Hiện nay kinh tế thế giới diễn biến rất phức tạp, nhiều nước ban hành các chính sách thương mại mới. Trong đó, chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ dự báo sẽ tác động tới dòng chảy xuất nhập khẩu. Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết FTA với nhiều đối tác khác, có thể làm tăng áp lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.
Điều này đặt ra yêu cầu đối với việc doanh nghiệp cần gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của EVFTA, trong đó có việc đáp ứng quy tắc xuất xứ tốt hơn, những giải pháp để đáp ứng quy tắc xuất xứ trong Hiệp định EVFTA và khai thác tối đa thị trường EU để giảm những tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ.
Tại tọa đàm “Tận dụng quy tắc xuất xứ trong EVFTA và ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong bối cảnh chính sách thuế đối ứng” vừa được tổ chức, thông tin về thực tiễn tận dụng quy tắc xuất xứ theo Hiệp định EVFTA nói riêng với một số mặt hàng, bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, tính từ ngày EVFTA có hiệu lực (1/8/2020), kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang EU đạt 17,9 tỷ USD năm 2020 và đạt 51,72 tỷ USD năm 2024.
Trong đó, giá trị hàng hóa được cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) tăng từ 2,66 tỷ USD (năm 2020) lên mức 18,13 tỷ USD (2024).
Con số này tương ứng với tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ vào khoảng 14,8% năm 2020 và tăng lên 35,1% vào năm 2024.
“Con số này cho thấy việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA đang tăng dần và đang có chiều hướng khá tích cực”, bà Hiền đánh giá.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, các mặt hàng khác nhau có tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ khá là khác nhau, tùy thuộc vào tính chất mặt hàng, tùy thuộc vào mức độ đáp ứng quy tắc xuất xứ của từng mặt hàng đi thị trường EU.
Tận dụng tốt cơ hội đối với các thị trường có FTA là chủ trương đúng đắn
Thông tin về một số ngành hàng, cụ thể là mặt hàng thủy sản, đại diện Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, từ ngày 1/8/2020 khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam khoảng 598 triệu USD và đến hết năm 2024 lên mức 1,01 tỷ USD.
Tương tự, số liệu liên quan đến cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho mặt hàng thủy sản từ 1/8/2020 là 421 triệu USD và đến hết năm 2024 là 808 triệu USD.
Với số liệu này, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ của mặt hàng thủy sản so với kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng thủy sản khá tương đồng.
Với mặt hàng dệt may, khoảng cách giữa con số về số liệu cấp giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ so với kim ngạch xuất khẩu thực tế của mặt hàng này là khá rộng.
Cụ thể là trong số 4,24 tỷ USD xuất khẩu kim ngạch dệt may vào EU năm 2024 thì chỉ có 1,36 tỷ USD là kim ngạch có chứng từ chứng nhận xuất xứ.
Với mặt hàng giày dép, gia trị hàng hoa được cấp giấy chứng nhận xuất xứ kim ngạch xuất khẩu sang EU năm 2024 tương ứng 5,74 tỷ USD và 5,89 tỷ USD. Như vậy, gần như hoàng hóa giày dép xuất khẩu đi EU đều có giấy chứng nhận xuất xứ hoặc chứng từ chứng nhận xuất xứ trong khuôn khổ EVFTA.
Ba mặt hàng cụ thể nói trên cho thấy, tỷ lệ cấp C/O hay tỷ lệ sử dụng chứng từ chứng nhận xuất xứ phụ thuộc vào tùy từng thị trường và tùy từng mặt hàng khác nhau.
Chia sẻ thêm, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam cho biết, quy tắc xuất xứ trong EVFTA đối với mặt hàng da giày khá thuận lợi khi yêu cầu chỉ cần đạt khoảng 40% giá trị gia tăng tại Việt Nam.
Tuy nhiên, theo bà Xuân, thị trường EU là một thị trường rất khó tính và là rào cản kỹ thuật rất cao. Ví dụ như đạo luật REACH là đạo luật liên quan đến các hóa chất độc hại đối với các sản phẩm, họ yêu cầu tính tuân thủ rất cao.
Bên cạnh đó, tới đây, theo các thỏa thuận xanh mà Ủy ban Châu Âu đưa ra thì sẽ tiếp tục có hàng loạt các đạo luật như Luật thẩm định chuỗi cung ứng, yêu cầu về các báo cáo bền vững… sẽ là một loạt các yêu cầu về mặt kỹ thuật và tất cả các nhà xuất khẩu của chúng ta bắt buộc phải tuân thủ và đáp ứng.
Đấy là một trong những thách thức cực kỳ lớn và khiến cho các doanh nghiệp như các DNVVN nếu như không có một sự chuẩn bị về mặt nội lực cũng như tiếp nhận kịp thời các thông tin thì chúng ta sẽ không thể xuất khẩu thành công.
Nhiều chuyên gia khuyến nghị các doanh nghiệp nên tận dụng cơ hội ưu đãi xuất xứ của các thị trường FTAs như EU, để giảm những thiệt hại cho doanh nghiệp trong bối cảnh thuế đối ứng tại thị trường Hoa Kỳ. Về vấn đề này, Phan Thị Thanh Xuân đánh giá đây là một chiến lược rất đúng đắn.
“Dù chúng ta bị tác động của chính sách thuế đối với thị trường Mỹ hay không thì chính sách đa dạng hóa thị trường và đặc biệt, phải tận dụng tốt cơ hội đối với các thị trường có FTA là một chủ trương rất đúng đắn của Chính phủ và các doanh nghiệp cũng đều định hướng theo con đường đó”, bà Xuân khẳng định.
Theo ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, trong bối cảnh mà Hoa Kỳ đang áp thuế đối ứng thì các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua đã hết sức nhanh chóng và nỗ lực để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và tận dụng tối đa các FTA hiện có, mà trong đó EVFTA là một trụ cột chiến lược.
Các doanh nghiệp cần phải chủ động đầu tư chuỗi cung ứng trong nước, phát triển nguồn nguyên liệu nội khối và đảm bảo cập nhật liên tục các quy định về xuất xứ trong EVFTA vì hiện nay EU kiểm soát rất chặt chẽ về tính minh bạch cũng như truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa.