![]() |
| Mở rộng các khoản thu nhập miễn thuế đang được Bộ Tài chính đề xuất sẽ góp phần hỗ trợ người nộp thuế. Ảnh: Nga Phạm. |
Mở rộng các khoản thu nhập được miễn thuế
Luật Thuế TNCN hiện hành quy định miễn thuế TNCN đối với 16 khoản thu nhập để thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên, phù hợp với đặc điểm và bối cảnh đất nước.
Tại dự thảo Luật, Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục duy trì các quy định miễn thuế đối với các khoản thu nhập này; đồng thời hoàn thiện một số chính sách về miễn thuế TNCN đảm bảo việc miễn, giảm thuế phù hợp với thực tiễn, minh bạch trong thực hiện.
Cụ thể, ngoài các khoản miễn thuế hiện hành, như: thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, kiều hối; thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, làm muối; tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với làm ban ngày hoặc làm trong giờ…, dự thảo bổ sung ưu đãi miễn, giảm thuế TNCN có thời hạn cho một số đối tượng nhất định.
Trong đó, miễn thuế TNCN trong 2 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với cá nhân là chuyên gia, nhà khoa học làm việc tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức khoa học và công nghệ.
Giảm 50% số thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân là nhân lực công nghệ cao làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức trong lĩnh vực công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, khoa học và công nghệ.
Các chính sách miễn, giảm thuế nêu trên thể hiện định hướng thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho chiến lược phát triển bền vững và tăng trưởng xanh của Việt Nam trong thời gian tới.
Một điểm đáng chú ý là, bên cạnh việc kế thừa các nhóm thu nhập chịu thuế theo Luật hiện hành, dự thảo mở rộng thêm một số loại thu nhập mới nhằm phản ánh đúng thực tế phát sinh và tránh thất thu thuế.
Theo đó, dự thảo bổ sung thu nhập từ chuyển nhượng biển số xe ô tô trúng đấu giá; chuyển nhượng tài sản số, bao gồm: tài sản kỹ thuật số, tài sản số khác theo quy định của Chính phủ; chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (tín chỉ carbon), trái phiếu xanh và công cụ tài chính gắn với phát triển bền vững; các khoản thu nhập khác do Chính phủ quy định.
Đồng thời đề xuất, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản số sẽ áp dụng mức thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần; đối với các khoản thu nhập khác vượt trên 10 triệu đồng/lần, áp dụng mức thuế suất 5% trên phần thu nhập vượt.
Việc mở rộng diện thu nhập chịu thuế gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế số, đồng thời bảo đảm nguyên tắc công bằng, mọi cá nhân có thu nhập đều có nghĩa vụ đóng thuế phù hợp với mức thu nhập thực tế phát sinh.
Điều chỉnh kỹ thuật tính thuế: Tạo thuận lợi và minh bạch
Một trong những nội dung cải cách nổi bật tại dự thảo Luật Thuế TNCN thay thế là điều chỉnh kỹ thuật tính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng và phù hợp với thực tiễn hơn. Những thay đổi này không chỉ góp phần giảm thủ tục hành chính, mà còn giúp người nộp thuế dễ kê khai, dễ hiểu và tăng tính công bằng trong thực thi pháp luật thuế.
Theo đó, dự thảo đã rút gọn biểu thuế lũy tiến từ 7 bậc xuống còn 5 bậc, áp dụng cho thu nhập từ tiền lương, tiền công, với thuế suất từ 5% đến 35%.
So với mức thuế suất cao nhất hiện nay là 35%, nhưng chia thành 7 bậc, cách thiết kế mới sẽ giãn khoảng cách giữa các bậc, giúp người nộp thuế dễ tính toán, kê khai và tránh tình trạng “nhảy bậc” thuế không hợp lý.
Ngoài ra, dự thảo cũng quy định việc tính thuế theo từng nhóm thu nhập riêng biệt, không gộp chung tất cả vào một biểu thuế, từ đó đơn giản hóa quy trình tính và nộp thuế, đồng thời giúp cơ quan thuế dễ quản lý.
Đơn cử như, đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhân cư trú được xác định bằng thu nhập tính thuế với thuế suất 20% theo từng lần chuyển nhượng. Trường hợp không xác định giá mua và các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng, thì thuế TNCN được xác định bằng giá bán nhân với 10% (nếu thời gian nắm giữ bất động sản dưới 2 năm); 6% (với thời gian nắm giữ từ 2-dưới 5 năm); 4% (nếu thời gian nắm giữ từ 5-dưới 10 năm); 2% (nếu thời gian nắm giữ từ 10 năm trở lên). Riêng bất động sản có nguồn gốc từ nhận thừa kế thì mức thuế suất được tính cố định là 2%.
Hay như thuế TNCN với thu nhập từ trúng thưởng, cơ quan soạn thảo cũng đề xuất mức chung là 10%; từ bản quyền áp dụng mức thuế suất 5%; thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân cư trú là 20% theo từng lần chuyển nhượng…
Về mức giảm trừ gia cảnh, tại thời điểm rà soát, dự thảo chưa quy định cụ thể cụ thể, nhưng có định hướng điều chỉnh để phù hợp với mặt bằng giá cả và mức sống thực tế.
Có thể nói, những điều chỉnh trong dự thảo Luật Thuế TNCN thay thế lần này cho thấy nỗ lực của Bộ Tài chính trong việc hiện đại hóa và nhân văn hóa chính sách thuế.
Việc mở rộng các khoản miễn thuế, nhằm bảo vệ các nhóm có thu nhập thấp hơn và khuyến khích phát triển nhân lực chất lượng cao, trong khi việc bổ sung các loại thu nhập mới bảo đảm cơ sở thuế rộng, công bằng, phù hợp với thực tiễn kinh tế hiện đại.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu được thông qua các quy định tại dự thảo luật sẽ tạo ra một hệ thống thuế công bằng hơn, dễ thực thi hơn, góp phần nuôi dưỡng nguồn thu bền vững và thực hiện hiệu quả các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội.