![]() |
| Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI phát biểu tại Hội thảo. |
Khoáng sản - Nguồn lực chiến lược
Phát biểu tại hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI khẳng định: “Ngành công nghiệp khai khoáng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Không chỉ cung cấp nguyên liệu đầu vào thiết yếu cho các ngành công nghiệp nền tảng như luyện kim, năng lượng, vật liệu xây dựng, khoáng sản còn là nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước”.
Việt Nam hiện sở hữu nhiều loại khoáng sản có giá trị chiến lược, trong đó có đất hiếm, vonfram, bôxit - những nguyên tố then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ cao, năng lượng tái tạo, sản xuất pin, chip bán dẫn và quốc phòng. Theo ước tính của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn, đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
Ông Phan Chiến Thắng - Phó Tổng giám đốc Công ty Masan High-Tech Materials cho biết: Việt Nam nổi bật với trữ lượng lớn vonfram và fluorit, nếu được khai thác và chế biến hiệu quả sẽ đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn do thủ tục cấp phép kéo dài, quy định chồng chéo và chi phí tài chính quá cao, khiến nhiều cơ hội đầu tư bị bỏ lỡ.
Thuế, phí - Rào cản lớn của doanh nghiệp
Theo ông Bùi Ngọc Tuấn - Phó Tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn Thuế Deloitte Việt Nam, mặc dù có tiềm năng lớn, nhưng việc khai thác, chế biến, đặc biệt là chế biến sâu vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là phí, thuế cao và chồng chéo, khiến doanh nghiệp không mặn mà đầu tư công nghệ hay mở rộng sản xuất.
Thực tế, các doanh nghiệp khai khoáng hiện đang phải thực hiện cùng lúc hai nghĩa vụ tài chính lớn: thuế tài nguyên (theo Luật Thuế tài nguyên 2009) và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (theo Luật Khoáng sản 2010, được kế thừa trong Luật Địa chất và Khoáng sản 2024).
Cả 2 khoản thu này đều nhằm bảo đảm Nhà nước thu được phần giá trị từ tài sản công là tài nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, việc cùng áp dụng 2 cơ chế tài chính đánh vào cùng một đối tượng đã làm tăng gánh nặng, gây ra nhiều hệ lụy pháp lý và kinh tế.
Ông Đậu Anh Tuấn cho biết, tổng mức nghĩa vụ tài chính hiện nay của doanh nghiệp có thể chiếm tới 30-40% doanh thu, cao vượt trội so với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, các quốc gia có ngành khai khoáng phát triển như Australia, Canada, Indonesia thường chỉ áp dụng một cơ chế thuế tài nguyên linh hoạt (royalty) kết hợp thuế thu nhập doanh nghiệp, với tổng mức thu thấp hơn đáng kể.
Đặc biệt, theo ông Phan Chiến Thắng, mức thuế, phí mà doanh nghiệp khoáng sản đang nộp chiếm 24-26% doanh thu, chưa kể thuế thu nhập doanh nghiệp. “Chính sách tài chính bất ổn, thủ tục cấp phép kéo dài khiến doanh nghiệp mất đi cơ hội đầu tư, giảm sức cạnh tranh trong nước và quốc tế”, ông nhấn mạnh.
Đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Xã hội
Chuyên gia cao cấp Nguyễn Văn Phụng - Nguyên Cục trưởng Cục Thuế Doanh nghiệp lớn (Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính) cho rằng: “Cần xác định rõ ranh giới giữa hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản, để có chính sách thu phù hợp. Khai thác là quá trình đưa khoáng sản ra khỏi tự nhiên; còn chế biến là công đoạn làm tăng giá trị của khoáng sản nguyên khai”.
![]() |
| Ông Nguyễn Văn Phụng phát biểu tại Hội thảo. |
Theo ông Phụng, nếu không có hệ thống chính sách đồng bộ, minh bạch, Việt Nam sẽ khó thu hút đầu tư vào các dự án chế biến sâu - hướng đi quyết định giá trị gia tăng và tính bền vững của ngành.
Ông Nguyễn Tiến Chỉnh - Trưởng ban Khoa học Công nghệ (Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam) thì cho rằng, chính sách thuế, phí cần vừa phải đảm bảo nguồn thu ngân sách, vừa khuyến khích đầu tư hiệu quả, tạo động lực cho doanh nghiệp gắn bó lâu dài.
Do đó, việc hoàn thiện thể chế tài chính tài nguyên đòi hỏi sự đồng thuận, minh bạch và khoa học, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Xã hội, phù hợp tinh thần phát triển bền vững trong Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược phát triển ngành khoáng sản đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Các ý kiến tại hội thảo cũng thống nhất cho rằng, muốn ngành công nghiệp khoáng sản Việt Nam phát triển bền vững, cần sớm tháo gỡ các “nút thắt” về thuế, phí và thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ, nâng cao giá trị tài nguyên - để khoáng sản thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế xanh và bền vững của đất nước.