Facebook Twitter youtube Tiktok

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường

Trước đề xuất thu thuế 0,1% giá trị trên mỗi lần giao dịch vàng miếng của Bộ Tài chính, nhiều chuyên gia cho rằng, cần hiểu đúng bản chất chính sách. Theo PGS. TS Ngô Trí Long, đây là công cụ nhằm tăng tính minh bạch và giám sát thị trường, chứ không phải biện pháp tận thu hay gây tác động tiêu cực đến người dân.
Bộ Tài chính đề xuất đánh thuế thu nhập cá nhân 0,1% đối với mỗi giao dịch vàng miếng
Xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu Đề xuất thu nhập từ giao dịch vàng thuộc đối tượng chịu thuế TNCN
Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
PGS. TS Ngô Trí Long.

Theo ông, việc Bộ Tài chính đề xuất đánh thuế 0,1% giá trị trên mỗi giao dịch vàng miếng mang lại những lợi ích gì cho quản lý thị trường và ngân sách nhà nước?

Tôi cho rằng, dưới góc nhìn quản lý thị trường và tài khóa, việc áp thuế 0,1% đối với giao dịch vàng miếng – nếu được thiết kế đúng phạm vi, loại trừ vàng trang sức và vàng nguyên liệu – là một “rào cản nhỏ nhất” nhưng mang lại “hiệu quả tối đa”. Đây là công cụ vừa tối ưu vừa hiệu quả, tạo ra nhiều giá trị quản lý cốt lõi.

Thứ nhất, giảm đầu cơ ngắn hạn, ổn định giá cả.Mức thuế 0,1% cho mỗi giao dịch – tương đương 0,2% cho một vòng mua–bán – khiến chi phí khứ hồi tối thiểu tăng, làm các chiến lược “lướt sóng biên mỏng” kém hấp dẫn.

Khi tần suất đảo vị thế giảm, giá vàng ít bị nhiễu, hành vi bầy đàn và thao túng ngắn hạn giảm đáng kể. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với vàng miếng – tài sản mang tính “trú ẩn” cao, dễ bị đầu cơ và tâm lý đám đông chi phối.

Thứ hai, kéo giao dịch về khu vực chính thức, tăng minh bạch dữ liệu.Cơ chế thu thuế tại nguồn thông qua hóa đơn điện tử và định danh khách hàng (KYC) buộc mọi giao dịch đi qua kênh được cấp phép, để lại dấu vết dữ liệu rõ ràng.

Nhờ đó, cơ quan quản lý có thể giám sát theo thời gian thực về doanh số, quy mô vị thế, độ tập trung theo khu vực hoặc đại lý, từ đó phát hiện sớm các bất thường và chủ động can thiệp mềm khi cần.

Thứ ba, tăng hiệu lực điều tiết, hỗ trợ mục tiêu “giảm vàng hóa”.Khi chi phí đầu cơ tăng và giao dịch phải kê khai, động cơ nắm giữ vàng miếng như một kênh sinh lời ngắn hạn giảm mạnh.

Nguồn vốn nhạy cảm có xu hướng dịch chuyển trở lại các kênh tài chính chính thức – tiền gửi, trái phiếu, cổ phiếu – góp phần giảm áp lực lên tỷ giá, dự trữ ngoại hối và chi phí điều hành vĩ mô.

Thứ tư, tạo sân chơi công bằng, tránh méo mó chuỗi giá trị. Phân biệt rõ vàng miếng (mang tính đầu cơ) với vàng trang sức và vàng nguyên liệu (phục vụ tiêu dùng và sản xuất), chính sách thuế đảm bảo không “đánh nhầm” vào khu vực sản xuất – tiêu dùng hợp pháp, đồng thời ngăn hành vi lợi dụng chênh lệch chế độ để “đội lốt” giao dịch, trốn tránh nghĩa vụ thuế.

Thứ năm, gia tăng nguồn thu ổn định với chi phí thu thấp.Với cơ sở thu rộng (tổng doanh số giao dịch vàng miếng) và thuế suất nhỏ, nguồn thu ngân sách được đảm bảo bền vững mà không gây sốc cho thị trường.

Việc khấu trừ và nộp thuế tại điểm bán được cấp phép giúp giảm chi phí hành thu và thất thu so với giao dịch ngoài luồng. Thu ngân sách tăng theo quy mô thị trường thay vì phải tăng thuế suất.

Thứ 6, nâng chuẩn tuân thủ và phù hợp chuẩn quốc tế về AML/CFT. Thuế giao dịch gắn với định danh khách hàng góp phần thực thi khung pháp lý chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT).

Việc đối soát dữ liệu thuế, hóa đơn và báo cáo của đại lý giúp bịt lỗ hổng thất thu, thu hẹp “vùng xám” trong kinh doanh vàng miếng.

Thứ 7, trao thêm công cụ linh hoạt cho chính sách điều hành.Cơ chế ngưỡng miễn trừ cho giao dịch nhỏ và khả năng điều chỉnh thuế suất theo chu kỳ cho phép nhà quản lý can thiệp mềm khi thị trường biến động mạnh.

Từ đó, chính sách chuyển từ “phản ứng bị động” sang “điều tiết chủ động” dựa trên dữ liệu thời gian thực.

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
Thu thuế ở mức 0,1% trên giá với mỗi lần giao dịch vàng miếng là công cụ vi mô nhưng mang tác động vĩ mô rõ rệt.

Có thể nói, việc thu thuế ở mức 0,1% trên giá với mỗi lần giao dịch vàng miếng là công cụ vi mô nhưng mang tác động vĩ mô rõ rệt – giúp làm phẳng biến động giá, tăng tính minh bạch, thu hẹp giao dịch ngầm, giảm “vàng hóa”, đồng thời bổ sung nguồn thu ổn định cho ngân sách với chi phí hành thu thấp.

Tuy nhiên, tôi cho rằng, điều kiện tiên quyết để chính sách thành công là thiết kế đúng đối tượng (chỉ áp dụng với vàng miếng), thu tại nguồn qua hệ thống cấp phép, liên thông dữ liệu hóa đơn điện tử và KYC, cùng cơ chế giám sát rủi ro theo thời gian thực.

Ông đánh giá thế nào về tác động tích cực của chính sách này đối với việc hạn chế đầu cơ, tích trữ vàng và hướng dòng vốn vào các kênh đầu tư sản xuất, kinh doanh?

Dưới góc nhìn chính sách vĩ mô, việc áp thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng vàng miếng có thể coi là một “rào cản điều tiết có chủ đích” nhằm điều chỉnh hành vi thị trường.

Cơ chế này mang lại một số tác động tích cực then chốt: giảm động cơ đầu cơ ngắn hạn; hạn chế tình trạng “vàng hóa” và tích trữ thụ động trong dân cư, và điều chỉnh lợi tức kỳ vọng sau thuế, khuyến khích dòng vốn quay lại sản xuất – kinh doanh.

Bên cạnh đó, mức thuế 0,1%/lần bán khiến chi phí khứ hồi cho một vòng mua–bán tăng tối thiểu 0,2%, tạo thêm rào cản chi phí bên cạnh chênh lệch mua–bán.

Đây là một lực cản nhỏ nhưng đủ để làm kém hấp dẫn các chiến lược “lướt sóng biên mỏng”, qua đó giảm tần suất giao dịch đầu cơ. Kinh nghiệm quốc tế về thuế giao dịch tài chính cho thấy một mức phí nhỏ thường ảnh hưởng mạnh hơn tới nhà đầu cơ ngắn hạn so với nhà đầu tư dài hạn.

Đồng thời, góp phần giảm “vàng hóa”. Trong bối cảnh chênh lệch giá vàng nội – ngoại còn lớn (cuối 9/2025 khoảng 128 triệu đồng/lượng), hoạt động đầu cơ ăn chênh dễ bùng phát.

Việc tăng chi phí giao dịch bổ sung giúp giảm sức hấp dẫn của các vòng quay này. Đồng thời, thuế hỗ trợ phía cầu, phối hợp với Nghị định 232/2025 về quản lý cung, để làm thị trường bớt méo mó, hạ nhiệt các cơn “sốt” vàng.

Cùng với đó, điều chỉnh tương quan lợi tức sau thuế. Trước đây, vàng miếng không chịu GTGT, tạo lợi thế kỳ vọng so với nhiều tài sản khác. Thuế giao dịch tuy nhỏ nhưng ổn định sẽ bào mòn lợi tức kỳ vọng của việc nắm giữ – quay vòng vàng, khiến so sánh tương đối nghiêng về các kênh tài chính – sản xuất có khả năng tạo việc làm và năng suất.

Trong bối cảnh 2024–2025 nhu cầu vàng toàn cầu tăng cao, Việt Nam ghi nhận sức hút lớn của vàng miếng, sắc thuế này trở thành công cụ “chặn dòng” hữu hiệu

PGS.TS Ngô Trí Long: Cần nhìn như một biện pháp quản lý, không phải “đánh thuế vào vàng”
Ông Lưu Đức Huy

"Theo quy định tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, cá nhân không được phép kinh doanh vàng miếng bởi đây là hoạt động có điều kiện. Do đó, khi phát sinh giao dịch vàng miếng sẽ được coi là một khoản thu nhập khác và thuộc diện chịu thuế TNCN".

(Ông Lưu Đức Huy, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí)

Nâng cao minh bạch và dữ liệu quản lý. Gắn nghĩa vụ thuế với khấu trừ tại nguồn và hóa đơn điện tử sẽ tạo cơ sở dữ liệu giao dịch đầy đủ hơn, giúp Ngân hàng Nhà nước điều tiết nguồn cung, tổ chức bán can thiệp, đồng thời phối hợp phòng chống rửa tiền và chuyển giá.

Đảm bảo khả năng chấp nhận xã hội. Với mức thuế suất thấp, phạm vi hẹp (chỉ vàng miếng), và cơ chế khấu trừ – hóa đơn điện tử, rủi ro chuyển dịch sang “chợ đen” là hạn chế. Thiết kế chính sách vừa đủ mạnh để kiềm chế đầu cơ, vừa đủ mềm để không gây sốc với người tích lũy hợp pháp.

Mặc dù vậy, theo tôi cần áp dụng khấu trừ tại nguồn và hóa đơn điện tử đồng bộ Nghị định 232/2025/NĐ-CP, miễn/giảm cho giao dịch nhỏ phục vụ tiêu dùng, và đánh giá định kỳ độ co giãn giao dịch để điều chỉnh thuế suất trong biên độ hẹp.

Tóm lại có thể nói, thuế 0,1% trên giao dịch vàng miếng, nếu triển khai đồng bộ, có cơ sở khoa học và thực tiễn để hạ nhiệt đầu cơ, giảm tích trữ quá mức và hướng vốn trở lại các kênh đầu tư sản xuất – kinh doanh, từ đó củng cố ổn định vĩ mô và nâng cao hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc áp dụng thuế này có thể khiến một số giao dịch chuyển sang kênh không chính thức. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này và giải pháp quản lý ra sao?

Tôi cho rằng lo ngại này không đáng ngại nếu chính sách được thiết kế và triển khai đúng kỹ thuật.

Vì sao lại vậy? Phải nhìn nhận rằng, động cơ né thuế rất thấp. Thuế 0,1% tương đương khoảng 135–138 nghìn đồng/lượng (nếu giá vàng miếng ở mức 135–138 triệu/lượng), trong khi chênh lệch mua–bán đang phổ biến 1,0–2,7 triệu đồng/lượng (tỷ lệ 0,7–2,0%), thậm chí chênh lệch trong–ngoài nước có lúc khoảng 12,8 triệu đồng/lượng. Lợi ích “lách” 0,1% quá nhỏ so với rủi ro pháp lý và chi phí giao dịch ngầm.

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
Lợi ích “lách” 0,1% quá nhỏ so với rủi ro pháp lý và chi phí giao dịch ngầm.

Khấu trừ tại nguồn khóa kênh lẩn tránh. Áp dụng cơ chế như chứng khoán (thu ngay tại điểm bán/nhà kinh doanh được cấp phép trước khi thanh toán) sẽ khiến hành vi né thuế khó có chỗ dựa, chi phí thực thi lại thấp.

Số hóa tạo “dấu vết” bắt buộc. Hóa đơn điện tử đã phủ rộng doanh nghiệp/hộ kinh doanh; cộng yêu cầu chuyển khoản với giao dịch từ 20 triệu đồng/ngày trở lên, làm cho giao dịch tiền mặt/không hóa đơn khó tồn tại ở quy mô đáng kể.

Thị trường đang được chính quy hóa. Khi quy định mới mở rộng chủ thể đủ điều kiện nhập khẩu/sản xuất và yêu cầu niêm yết, kết nối dữ liệu giao dịch với cơ quan quản lý, nguồn cung hợp pháp tăng sẽ kéo giao dịch về kênh chính thức—nơi thu thuế dễ nhất.

Đánh trúng đối tượng, hạn chế méo mó. Không áp thuế 0,1% với vàng trang sức, tránh động cơ “hóa trang” giao dịch đầu cơ thành giao dịch trang sức để né thuế.

Phù hợp mục tiêu ổn định. Thuế 0,1% là công cụ “định danh – ghi vết – giảm đầu cơ”, nhất quán với yêu cầu nâng minh bạch và giảm biến động giá; đồng thời tương thích lộ trình sửa Luật Thuế TNCN.

Xác suất dịch chuyển sang giao dịch ngầm là thấp và không mang tính hệ thống. Ngược lại, chính sách khuyến khích chuẩn hóa giao dịch về khu vực chính thức, tăng minh bạch, củng cố quản lý thị trường và hỗ trợ mục tiêu ổn định vĩ mô.

Theo ông, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần bổ sung những giải pháp quản lý nào, nhằm đảm bảo thị trường vàng minh bạch, ổn định hơn?

Chính sách thuế chỉ là một phần. Quan trọng hơn là hạ tầng dữ liệu và công cụ điều tiết hiện đại, để thị trường vàng vận hành minh bạch, hiệu quả và gắn với ổn định vĩ mô.

Do vậy, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần bổ sung những giải pháp quản lý nhằm đảm bảo thị trường vàng minh bạch, ổn định hơn.

Minh bạch hoá dữ liệu & truy vết giao dịch theo thời gian thực, bắt buộc hoá đơn điện tử, số hoá/đăng ký seri vàng miếng; kết nối POS–ngân hàng–tổ chức tín dụng để báo cáo tự động về giá, khối lượng, tồn kho; công bố bảng điều khiển (spread, volume) hằng ngày giúp giảm kỳ vọng đầu cơ và phát hiện bất thường sớm.

Bình ổn nguồn cung, giảm méo giá, thiết lập cơ chế đấu thầu/nhập khẩu định kỳ và “standing facility” để xử lý sốc cung; đa dạng hóa thương hiệu vàng miếng, chuẩn hoá chất lượng (tiệm cận chuẩn Good Delivery), lộ trình chấm dứt thế độc quyền nhãn hiệu; yêu cầu báo cáo tồn kho tối thiểu và kiểm toán định kỳ.

Tái cấu trúc thị trường & nghĩa vụ yết giá. Cho phép hoạt động của các nhà tạo lập thị trường với trách nhiệm niêm yết giá mua – bán hai chiều và đảm bảo biên độ chênh lệch tối đa theo diễn biến thị trường; chuẩn hoá thành viên kinh doanh (vốn tối thiểu, quản trị rủi ro, lưu ký–bù trừ T+0/T+1); siết quảng cáo/niêm yết phí–thuế minh bạch để bảo vệ người mua lẻ.

Phát triển công cụ thay thế và phòng ngừa rủi ro, triển khai chứng chỉ vàng lưu ký/không rút và ETF vàng nội địa dưới khung quản trị rủi ro; cho phép hợp đồng kỳ hạn/hoán đổi do TCTD cung cấp để phòng ngừa rủi ro giá, qua đó hút cầu đầu cơ khỏi vàng vật chất và giảm áp lực lên thị trường giao ngay.

Kỷ luật thị trường, AML/CFT & hạn chế thanh toán tiền mặt: áp ngưỡng báo cáo giao dịch lớn/đáng ngờ, eKYC bắt buộc; giới hạn thanh toán tiền mặt cho giao dịch giá trị cao; chế tài mạnh với thao túng–thổi giá–tin đồn thất thiệt; thiết lập cơ chế khiếu nại/đường dây nóng và chương trình giáo dục tài chính để điều chỉnh kỳ vọng đám đông.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Thúy Nga (thực hiện)

Tin liên quan

Tôm Việt bứt phá nhờ sản phẩm chế biến sâu

Tôm Việt bứt phá nhờ sản phẩm chế biến sâu

Các nhà máy chế biến của Việt Nam có tổng công suất hàng triệu tấn/năm, có thể cung ứng đa dạng sản phẩm: từ block đông lạnh tới tôm hấp chín, tôm tẩm bột, sản phẩm giá trị gia tăng đóng gói bán lẻ. Đây là lợi thế lớn để Việt Nam bắt nhịp xu thế.
(INFOGRAPHICS): Cà phê Việt tỏa hương nhiều nhất ở những thị trường nào?

(INFOGRAPHICS): Cà phê Việt tỏa hương nhiều nhất ở những thị trường nào?

Thống kê mới nhất của Cục Hải quan ghi nhận từ đầu năm đến 15/9, xuất khẩu cà phê đạt 6,73 tỷ USD, tăng mạnh 61,8% so với cùng kỳ 2024. Đây là một trong các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực có tăng trưởng ấn tượng nhất.
Xuất khẩu sang Ả Rập Xê Út tăng ấn tượng 29%

Xuất khẩu sang Ả Rập Xê Út tăng ấn tượng 29%

Ả Rập Xê Út là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng hàng đầu của Việt Nam, nhất là khu vực Trung Đông và đạt được kết quả tăng trưởng hết sức ấn tượng.
Tạo hành lang pháp lý về hồ sơ, thủ tục xác định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt

Tạo hành lang pháp lý về hồ sơ, thủ tục xác định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt

Tại dự thảo Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế TTĐB được Bộ Tài chính công bố lấy ý kiến công khai.
Tăng hơn 40% mức giảm trừ gia cảnh: Hàng triệu người nộp thuế hưởng lợi

Tăng hơn 40% mức giảm trừ gia cảnh: Hàng triệu người nộp thuế hưởng lợi

Bộ Tài chính đang đề xuất nâng mức giảm trừ gia cảnh (GTGC) từ 11 triệu đồng/tháng lên 15,5 triệu đồng/tháng cho người nộp thuế và từ 4,4 triệu đồng/tháng lên 6,2 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc, tương ứng tăng khoảng 40,9% so với hiện hành. Phương án này nhận được nhiều ý kiến đồng tình, bởi phù hợp với bối cảnh kinh tế, mức sống và nhu cầu chi tiêu của người dân hiện nay.
Thủ tục hải quan khi tách công ty và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm

Thủ tục hải quan khi tách công ty và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm

Theo ghi nhận, thời gian qua, nhiều DN gặp vướng mắc liên quan đến quá trình chia tách DN như báo cáo quyết toán, hoạt động trong giai đoạn chuyển tiếp, chuyển giao nguyên vật liệu, máy móc, quy trình và hồ sơ đăng ký loại hình kinh doanh… Để DN nắm được các quy định trong khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK, cơ quan Hải quan đã hướng dẫn các vấn đề liên quan nhằm giúp DN nắm sâu, kỹ hơn chính sách pháp luật hiện hành.
Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi: Hoàn thiện hành lang pháp lý hiện đại, phù hợp thực tiễn quản lý

Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi: Hoàn thiện hành lang pháp lý hiện đại, phù hợp thực tiễn quản lý

Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) mới nhất không chỉ kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật hiện hành, mà còn tạo dựng nền tảng pháp lý toàn diện, đáp ứng yêu cầu tổ chức hệ thống thuế theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đồng thời, thúc đẩy chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tư nhân.
Cửa khẩu thông minh: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Cửa khẩu thông minh: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam

Khái niệm Cửa khẩu thông minh đang trở thành xu hướng phát triển tại nhiều quốc gia, nhằm tối ưu hóa quá trình kiểm soát biên giới, tạo thuận lợi thương mại và tăng cường an ninh. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã và đang tích cực triển khai các mô hình Biên giới thông minh, Cửa khẩu thông minh nhằm tăng cường an ninh biên giới và thúc đẩy thương mại quốc tế.
“Giảm 44% thủ tục hành chính thuế và chắc chắn không tăng thêm”

“Giảm 44% thủ tục hành chính thuế và chắc chắn không tăng thêm”

Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế được cam kết rõ ràng thông qua việc thể hiện bằng con số rất cụ thể, giảm 44% thủ tục hành chính và chắc chắn không tăng thêm. Đây là cải cách lớn, đã nằm trong lộ trình và là cam kết trước Chính phủ.
Giảm thuế – công cụ kích cầu hiệu quả, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

Giảm thuế – công cụ kích cầu hiệu quả, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, việc thúc đẩy tiêu dùng nội địa đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hỗ trợ tăng trưởng. Nhiều ý kiến cho rằng, giảm thuế là giải pháp hiệu quả để kích cầu tiêu dùng, qua đó hỗ trợ sản xuất kinh doanh phát triển.
Bài 3: Cửa khẩu thông minh - Hiện thực hóa mục tiêu “cửa khẩu kiểu mẫu”

Bài 3: Cửa khẩu thông minh - Hiện thực hóa mục tiêu “cửa khẩu kiểu mẫu”

Từ thành công của Nền tảng cửa khẩu số, sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, năm 2024, tỉnh Lạng Sơn bắt tay vào triển khai xây dựng đề án thí điểm mô hình Cửa khẩu thông minh (gọi tắt là Cửa khẩu thông minh). Cửa khẩu thông minh được kỳ vọng sẽ phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh trong phát triển kinh tế cửa khẩu và hiện thực hóa mục tiêu “cửa khẩu kiểu mẫu”. Từ đó, góp phần hiện đại hóa khu vực cửa khẩu, đẩy mạnh XNK hàng hóa của 2 nước Việt Nam - Trung Quốc, tạo ra nguồn thu cho NSNN.
Khó chứng minh hành vi vi phạm của doanh nghiệp nhập khẩu

Khó chứng minh hành vi vi phạm của doanh nghiệp nhập khẩu

Trong quá trình thực tiễn triển khai Nghị định 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan Hải quan gặp khó đối với việc xác định và chứng minh hành vi vi phạm của DN NK.
Được miễn thuế nhưng xe ô tô chuyên dùng phải nộp thuế nếu thay đổi mục đích sử dụng

Được miễn thuế nhưng xe ô tô chuyên dùng phải nộp thuế nếu thay đổi mục đích sử dụng

Đó là đề xuất của Bộ Tài chính đưa ra lấy ý kiến đóng góp tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB).
Bài 2: Còn nhiều hạn chế trong chia sẻ và sử dụng thông tin

Bài 2: Còn nhiều hạn chế trong chia sẻ và sử dụng thông tin

Nền tảng cửa khẩu số là bước đột phá trong công cuộc chuyển đổi số, góp phần tạo thuận lợi, công khai, minh bạch. Tuy nhiên, do không có hình mẫu, quy định, hướng dẫn nào có thể tham chiếu, học hỏi nên trong quá trình thực hiện, đã phát sinh một số khó khăn như chia sẻ và sử dụng thông tin dữ liệu, thay đổi tên gọi đối với các đơn vị; bổ sung luồng quy trình XNK bãi ngoài cửa khẩu; thay đổi vai trò của trạm quản lý vận tải…
Xem thêm
cong-ty-thai-son
vietnampost-logistic
toan-phat-group
cong-ty-tnhh-vsl-viet-nam
thaco-thilogi-1-thang-dien-dan-hq-dn
cong-ty-co-phan-thuong-mai-va-dau-tu-dai-phuc
cong-ty-co-phan-dau-tu-va-phat-trien-lifetech
sunshine-group
thaco-thilogi-1-thang-dien-dan-hq-dn
expo
acv-auditscare
vedan
cong-ty-tnhh-scancom-viet-nam
cong-ty-tnhh-vsl-viet-nam
thong-bao
tan-cong-toi-pham-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-hang-gia
kinh-te-tai-chinh-quy-dinh-dang-bai-bao-khoa-hoc
INFOGRAPHICS: Hướng dẫn hộ, cá nhân cư trú kinh doanh trên sàn TMĐT kê khai, nộp thuế

INFOGRAPHICS: Hướng dẫn hộ, cá nhân cư trú kinh doanh trên sàn TMĐT kê khai, nộp thuế

Căn cứ Luật Thuế GTGT, Luật Thuế TNCN, Luật Quản lý thuế và Nghị định 117/2025/NĐ-CP, cơ quan thuế hướng dẫn hộ, cá nhân kinh doanh trên sàn thương mại điện tử (TMĐT) không có chức năng thanh toán thực hiện nghĩa vụ thuế như sau:
INFOGRAPHICS: Hướng dẫn sàn TMĐT ở trong nước và tổ chức kinh tế số khấu trừ, nộp thuế thay

INFOGRAPHICS: Hướng dẫn sàn TMĐT ở trong nước và tổ chức kinh tế số khấu trừ, nộp thuế thay

Cơ quan thuế hướng dẫn các sàn thương mại điện tử, nền tảng số trong nước và tổ chức có hoạt động kinh tế số khác thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay.
INFOGRAPHICS: Hộ, cá nhân cho thuê tài sản phải nộp những loại thuế, phí nào?

INFOGRAPHICS: Hộ, cá nhân cho thuê tài sản phải nộp những loại thuế, phí nào?

Theo Thông tư 40/2021/TT-BTC, hộ, cá nhân cho thuê nhà, mặt bằng, văn phòng... nếu có doanh thu cho thuê trên 100 triệu đồng/năm thì phải nộp các loại thuế, phí
(INFOGRAPHICS): Xuất khẩu thủy sản Việt Nam 8 tháng tăng 17%

(INFOGRAPHICS): Xuất khẩu thủy sản Việt Nam 8 tháng tăng 17%

Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản 8 tháng năm 2025 tiếp tục tăng 17% so với cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu các nhóm mặt hàng của Việt Nam đều tăng so với cùng kỳ, trừ cá ngừ.
(INFOGRAPHICS): Hướng dẫn cá nhân không cư trú kinh doanh trên sàn TMĐT kê khai, nộp thuế

(INFOGRAPHICS): Hướng dẫn cá nhân không cư trú kinh doanh trên sàn TMĐT kê khai, nộp thuế

Cá nhân không cư trú tại Việt Nam, có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử (TMĐT) không có chức năng thanh toán, có phát sinh doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng tại Việt Nam có nghĩa vụ khai, nộp thuế.
Phiên bản di động