Facebook Twitter youtube Tiktok

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường

Trước đề xuất thu thuế 0,1% giá trị trên mỗi lần giao dịch vàng miếng của Bộ Tài chính, nhiều chuyên gia cho rằng, cần hiểu đúng bản chất chính sách. Theo PGS. TS Ngô Trí Long, đây là công cụ nhằm tăng tính minh bạch và giám sát thị trường, chứ không phải biện pháp tận thu hay gây tác động tiêu cực đến người dân.
Bộ Tài chính đề xuất đánh thuế thu nhập cá nhân 0,1% đối với mỗi giao dịch vàng miếng
Xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu Đề xuất thu nhập từ giao dịch vàng thuộc đối tượng chịu thuế TNCN
Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
PGS. TS Ngô Trí Long.

Theo ông, việc Bộ Tài chính đề xuất đánh thuế 0,1% giá trị trên mỗi giao dịch vàng miếng mang lại những lợi ích gì cho quản lý thị trường và ngân sách nhà nước?

Tôi cho rằng, dưới góc nhìn quản lý thị trường và tài khóa, việc áp thuế 0,1% đối với giao dịch vàng miếng – nếu được thiết kế đúng phạm vi, loại trừ vàng trang sức và vàng nguyên liệu – là một “rào cản nhỏ nhất” nhưng mang lại “hiệu quả tối đa”. Đây là công cụ vừa tối ưu vừa hiệu quả, tạo ra nhiều giá trị quản lý cốt lõi.

Thứ nhất, giảm đầu cơ ngắn hạn, ổn định giá cả.Mức thuế 0,1% cho mỗi giao dịch – tương đương 0,2% cho một vòng mua–bán – khiến chi phí khứ hồi tối thiểu tăng, làm các chiến lược “lướt sóng biên mỏng” kém hấp dẫn.

Khi tần suất đảo vị thế giảm, giá vàng ít bị nhiễu, hành vi bầy đàn và thao túng ngắn hạn giảm đáng kể. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với vàng miếng – tài sản mang tính “trú ẩn” cao, dễ bị đầu cơ và tâm lý đám đông chi phối.

Thứ hai, kéo giao dịch về khu vực chính thức, tăng minh bạch dữ liệu.Cơ chế thu thuế tại nguồn thông qua hóa đơn điện tử và định danh khách hàng (KYC) buộc mọi giao dịch đi qua kênh được cấp phép, để lại dấu vết dữ liệu rõ ràng.

Nhờ đó, cơ quan quản lý có thể giám sát theo thời gian thực về doanh số, quy mô vị thế, độ tập trung theo khu vực hoặc đại lý, từ đó phát hiện sớm các bất thường và chủ động can thiệp mềm khi cần.

Thứ ba, tăng hiệu lực điều tiết, hỗ trợ mục tiêu “giảm vàng hóa”.Khi chi phí đầu cơ tăng và giao dịch phải kê khai, động cơ nắm giữ vàng miếng như một kênh sinh lời ngắn hạn giảm mạnh.

Nguồn vốn nhạy cảm có xu hướng dịch chuyển trở lại các kênh tài chính chính thức – tiền gửi, trái phiếu, cổ phiếu – góp phần giảm áp lực lên tỷ giá, dự trữ ngoại hối và chi phí điều hành vĩ mô.

Thứ tư, tạo sân chơi công bằng, tránh méo mó chuỗi giá trị. Phân biệt rõ vàng miếng (mang tính đầu cơ) với vàng trang sức và vàng nguyên liệu (phục vụ tiêu dùng và sản xuất), chính sách thuế đảm bảo không “đánh nhầm” vào khu vực sản xuất – tiêu dùng hợp pháp, đồng thời ngăn hành vi lợi dụng chênh lệch chế độ để “đội lốt” giao dịch, trốn tránh nghĩa vụ thuế.

Thứ năm, gia tăng nguồn thu ổn định với chi phí thu thấp.Với cơ sở thu rộng (tổng doanh số giao dịch vàng miếng) và thuế suất nhỏ, nguồn thu ngân sách được đảm bảo bền vững mà không gây sốc cho thị trường.

Việc khấu trừ và nộp thuế tại điểm bán được cấp phép giúp giảm chi phí hành thu và thất thu so với giao dịch ngoài luồng. Thu ngân sách tăng theo quy mô thị trường thay vì phải tăng thuế suất.

Thứ 6, nâng chuẩn tuân thủ và phù hợp chuẩn quốc tế về AML/CFT. Thuế giao dịch gắn với định danh khách hàng góp phần thực thi khung pháp lý chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT).

Việc đối soát dữ liệu thuế, hóa đơn và báo cáo của đại lý giúp bịt lỗ hổng thất thu, thu hẹp “vùng xám” trong kinh doanh vàng miếng.

Thứ 7, trao thêm công cụ linh hoạt cho chính sách điều hành.Cơ chế ngưỡng miễn trừ cho giao dịch nhỏ và khả năng điều chỉnh thuế suất theo chu kỳ cho phép nhà quản lý can thiệp mềm khi thị trường biến động mạnh.

Từ đó, chính sách chuyển từ “phản ứng bị động” sang “điều tiết chủ động” dựa trên dữ liệu thời gian thực.

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
Thu thuế ở mức 0,1% trên giá với mỗi lần giao dịch vàng miếng là công cụ vi mô nhưng mang tác động vĩ mô rõ rệt.

Có thể nói, việc thu thuế ở mức 0,1% trên giá với mỗi lần giao dịch vàng miếng là công cụ vi mô nhưng mang tác động vĩ mô rõ rệt – giúp làm phẳng biến động giá, tăng tính minh bạch, thu hẹp giao dịch ngầm, giảm “vàng hóa”, đồng thời bổ sung nguồn thu ổn định cho ngân sách với chi phí hành thu thấp.

Tuy nhiên, tôi cho rằng, điều kiện tiên quyết để chính sách thành công là thiết kế đúng đối tượng (chỉ áp dụng với vàng miếng), thu tại nguồn qua hệ thống cấp phép, liên thông dữ liệu hóa đơn điện tử và KYC, cùng cơ chế giám sát rủi ro theo thời gian thực.

Ông đánh giá thế nào về tác động tích cực của chính sách này đối với việc hạn chế đầu cơ, tích trữ vàng và hướng dòng vốn vào các kênh đầu tư sản xuất, kinh doanh?

Dưới góc nhìn chính sách vĩ mô, việc áp thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng vàng miếng có thể coi là một “rào cản điều tiết có chủ đích” nhằm điều chỉnh hành vi thị trường.

Cơ chế này mang lại một số tác động tích cực then chốt: giảm động cơ đầu cơ ngắn hạn; hạn chế tình trạng “vàng hóa” và tích trữ thụ động trong dân cư, và điều chỉnh lợi tức kỳ vọng sau thuế, khuyến khích dòng vốn quay lại sản xuất – kinh doanh.

Bên cạnh đó, mức thuế 0,1%/lần bán khiến chi phí khứ hồi cho một vòng mua–bán tăng tối thiểu 0,2%, tạo thêm rào cản chi phí bên cạnh chênh lệch mua–bán.

Đây là một lực cản nhỏ nhưng đủ để làm kém hấp dẫn các chiến lược “lướt sóng biên mỏng”, qua đó giảm tần suất giao dịch đầu cơ. Kinh nghiệm quốc tế về thuế giao dịch tài chính cho thấy một mức phí nhỏ thường ảnh hưởng mạnh hơn tới nhà đầu cơ ngắn hạn so với nhà đầu tư dài hạn.

Đồng thời, góp phần giảm “vàng hóa”. Trong bối cảnh chênh lệch giá vàng nội – ngoại còn lớn (cuối 9/2025 khoảng 128 triệu đồng/lượng), hoạt động đầu cơ ăn chênh dễ bùng phát.

Việc tăng chi phí giao dịch bổ sung giúp giảm sức hấp dẫn của các vòng quay này. Đồng thời, thuế hỗ trợ phía cầu, phối hợp với Nghị định 232/2025 về quản lý cung, để làm thị trường bớt méo mó, hạ nhiệt các cơn “sốt” vàng.

Cùng với đó, điều chỉnh tương quan lợi tức sau thuế. Trước đây, vàng miếng không chịu GTGT, tạo lợi thế kỳ vọng so với nhiều tài sản khác. Thuế giao dịch tuy nhỏ nhưng ổn định sẽ bào mòn lợi tức kỳ vọng của việc nắm giữ – quay vòng vàng, khiến so sánh tương đối nghiêng về các kênh tài chính – sản xuất có khả năng tạo việc làm và năng suất.

Trong bối cảnh 2024–2025 nhu cầu vàng toàn cầu tăng cao, Việt Nam ghi nhận sức hút lớn của vàng miếng, sắc thuế này trở thành công cụ “chặn dòng” hữu hiệu

PGS.TS Ngô Trí Long: Cần nhìn như một biện pháp quản lý, không phải “đánh thuế vào vàng”
Ông Lưu Đức Huy

"Theo quy định tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, cá nhân không được phép kinh doanh vàng miếng bởi đây là hoạt động có điều kiện. Do đó, khi phát sinh giao dịch vàng miếng sẽ được coi là một khoản thu nhập khác và thuộc diện chịu thuế TNCN".

(Ông Lưu Đức Huy, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí)

Nâng cao minh bạch và dữ liệu quản lý. Gắn nghĩa vụ thuế với khấu trừ tại nguồn và hóa đơn điện tử sẽ tạo cơ sở dữ liệu giao dịch đầy đủ hơn, giúp Ngân hàng Nhà nước điều tiết nguồn cung, tổ chức bán can thiệp, đồng thời phối hợp phòng chống rửa tiền và chuyển giá.

Đảm bảo khả năng chấp nhận xã hội. Với mức thuế suất thấp, phạm vi hẹp (chỉ vàng miếng), và cơ chế khấu trừ – hóa đơn điện tử, rủi ro chuyển dịch sang “chợ đen” là hạn chế. Thiết kế chính sách vừa đủ mạnh để kiềm chế đầu cơ, vừa đủ mềm để không gây sốc với người tích lũy hợp pháp.

Mặc dù vậy, theo tôi cần áp dụng khấu trừ tại nguồn và hóa đơn điện tử đồng bộ Nghị định 232/2025/NĐ-CP, miễn/giảm cho giao dịch nhỏ phục vụ tiêu dùng, và đánh giá định kỳ độ co giãn giao dịch để điều chỉnh thuế suất trong biên độ hẹp.

Tóm lại có thể nói, thuế 0,1% trên giao dịch vàng miếng, nếu triển khai đồng bộ, có cơ sở khoa học và thực tiễn để hạ nhiệt đầu cơ, giảm tích trữ quá mức và hướng vốn trở lại các kênh đầu tư sản xuất – kinh doanh, từ đó củng cố ổn định vĩ mô và nâng cao hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, việc áp dụng thuế này có thể khiến một số giao dịch chuyển sang kênh không chính thức. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này và giải pháp quản lý ra sao?

Tôi cho rằng lo ngại này không đáng ngại nếu chính sách được thiết kế và triển khai đúng kỹ thuật.

Vì sao lại vậy? Phải nhìn nhận rằng, động cơ né thuế rất thấp. Thuế 0,1% tương đương khoảng 135–138 nghìn đồng/lượng (nếu giá vàng miếng ở mức 135–138 triệu/lượng), trong khi chênh lệch mua–bán đang phổ biến 1,0–2,7 triệu đồng/lượng (tỷ lệ 0,7–2,0%), thậm chí chênh lệch trong–ngoài nước có lúc khoảng 12,8 triệu đồng/lượng. Lợi ích “lách” 0,1% quá nhỏ so với rủi ro pháp lý và chi phí giao dịch ngầm.

Đề xuất thu thuế giao dịch vàng miếng: Cần nhìn nhận đây là công cụ tăng tính minh bạch của thị trường
Lợi ích “lách” 0,1% quá nhỏ so với rủi ro pháp lý và chi phí giao dịch ngầm.

Khấu trừ tại nguồn khóa kênh lẩn tránh. Áp dụng cơ chế như chứng khoán (thu ngay tại điểm bán/nhà kinh doanh được cấp phép trước khi thanh toán) sẽ khiến hành vi né thuế khó có chỗ dựa, chi phí thực thi lại thấp.

Số hóa tạo “dấu vết” bắt buộc. Hóa đơn điện tử đã phủ rộng doanh nghiệp/hộ kinh doanh; cộng yêu cầu chuyển khoản với giao dịch từ 20 triệu đồng/ngày trở lên, làm cho giao dịch tiền mặt/không hóa đơn khó tồn tại ở quy mô đáng kể.

Thị trường đang được chính quy hóa. Khi quy định mới mở rộng chủ thể đủ điều kiện nhập khẩu/sản xuất và yêu cầu niêm yết, kết nối dữ liệu giao dịch với cơ quan quản lý, nguồn cung hợp pháp tăng sẽ kéo giao dịch về kênh chính thức—nơi thu thuế dễ nhất.

Đánh trúng đối tượng, hạn chế méo mó. Không áp thuế 0,1% với vàng trang sức, tránh động cơ “hóa trang” giao dịch đầu cơ thành giao dịch trang sức để né thuế.

Phù hợp mục tiêu ổn định. Thuế 0,1% là công cụ “định danh – ghi vết – giảm đầu cơ”, nhất quán với yêu cầu nâng minh bạch và giảm biến động giá; đồng thời tương thích lộ trình sửa Luật Thuế TNCN.

Xác suất dịch chuyển sang giao dịch ngầm là thấp và không mang tính hệ thống. Ngược lại, chính sách khuyến khích chuẩn hóa giao dịch về khu vực chính thức, tăng minh bạch, củng cố quản lý thị trường và hỗ trợ mục tiêu ổn định vĩ mô.

Theo ông, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần bổ sung những giải pháp quản lý nào, nhằm đảm bảo thị trường vàng minh bạch, ổn định hơn?

Chính sách thuế chỉ là một phần. Quan trọng hơn là hạ tầng dữ liệu và công cụ điều tiết hiện đại, để thị trường vàng vận hành minh bạch, hiệu quả và gắn với ổn định vĩ mô.

Do vậy, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần bổ sung những giải pháp quản lý nhằm đảm bảo thị trường vàng minh bạch, ổn định hơn.

Minh bạch hoá dữ liệu & truy vết giao dịch theo thời gian thực, bắt buộc hoá đơn điện tử, số hoá/đăng ký seri vàng miếng; kết nối POS–ngân hàng–tổ chức tín dụng để báo cáo tự động về giá, khối lượng, tồn kho; công bố bảng điều khiển (spread, volume) hằng ngày giúp giảm kỳ vọng đầu cơ và phát hiện bất thường sớm.

Bình ổn nguồn cung, giảm méo giá, thiết lập cơ chế đấu thầu/nhập khẩu định kỳ và “standing facility” để xử lý sốc cung; đa dạng hóa thương hiệu vàng miếng, chuẩn hoá chất lượng (tiệm cận chuẩn Good Delivery), lộ trình chấm dứt thế độc quyền nhãn hiệu; yêu cầu báo cáo tồn kho tối thiểu và kiểm toán định kỳ.

Tái cấu trúc thị trường & nghĩa vụ yết giá. Cho phép hoạt động của các nhà tạo lập thị trường với trách nhiệm niêm yết giá mua – bán hai chiều và đảm bảo biên độ chênh lệch tối đa theo diễn biến thị trường; chuẩn hoá thành viên kinh doanh (vốn tối thiểu, quản trị rủi ro, lưu ký–bù trừ T+0/T+1); siết quảng cáo/niêm yết phí–thuế minh bạch để bảo vệ người mua lẻ.

Phát triển công cụ thay thế và phòng ngừa rủi ro, triển khai chứng chỉ vàng lưu ký/không rút và ETF vàng nội địa dưới khung quản trị rủi ro; cho phép hợp đồng kỳ hạn/hoán đổi do TCTD cung cấp để phòng ngừa rủi ro giá, qua đó hút cầu đầu cơ khỏi vàng vật chất và giảm áp lực lên thị trường giao ngay.

Kỷ luật thị trường, AML/CFT & hạn chế thanh toán tiền mặt: áp ngưỡng báo cáo giao dịch lớn/đáng ngờ, eKYC bắt buộc; giới hạn thanh toán tiền mặt cho giao dịch giá trị cao; chế tài mạnh với thao túng–thổi giá–tin đồn thất thiệt; thiết lập cơ chế khiếu nại/đường dây nóng và chương trình giáo dục tài chính để điều chỉnh kỳ vọng đám đông.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Thúy Nga (thực hiện)

Tin liên quan

Số liệu xuất khẩu tháng 10/2025

Số liệu xuất khẩu tháng 10/2025

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng 10/2025 đạt 42,05 tỷ USD, giảm nhẹ 1,5% (tương ứng giảm 621 triệu USD) so với tháng trước.
Kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng chính nửa cuối tháng 10/2025

Kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng chính nửa cuối tháng 10/2025

Tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 10 (16-31/10/2025) đạt 22,70 tỷ USD, tăng 17,3% (tương ứng tăng tới 3,35 tỷ USD) so với kỳ 1 tháng 10/2025.
Thời cơ tốt để doanh nghiệp Việt thâm nhập sâu hơn vào thị trường Đức

Thời cơ tốt để doanh nghiệp Việt thâm nhập sâu hơn vào thị trường Đức

Đức là thị trường có quy mô lớn nhất trong các nước EU, có thu nhập cao và nhu cầu đa dạng đặc biệt là cộng đồng người Á không ngừng mở rộng. Đây là thời cơ quan trọng cho doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi EVFTA đang phát huy hiệu quả.
Chống gian lận thương mại điện tử và vai trò của cơ quan Hải quan

Chống gian lận thương mại điện tử và vai trò của cơ quan Hải quan

Thương mại điện tử (TMĐT) đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sự bùng nổ của TMĐT cũng tạo điều kiện cho các hoạt động gian lận, đặc biệt là buôn lậu hàng giả, hàng nhái và hàng vi phạm sở hữu trí tuệ (SHTT).
Dệt may Việt Nam và tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ

Dệt may Việt Nam và tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ

Trong danh mục hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu (XK) sang thị trường Hoa Kỳ, mặt hàng dệt may nằm trong nhóm những mặt hàng chủ lực. Tuy nhiên, tác động từ thuế đối ứng của Hoa Kỳ sẽ không chỉ làm tăng giá thành và giảm sức cạnh tranh của hàng hóa mà còn có khả năng khiến đơn hàng sụt giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch XK và triển vọng tăng trưởng toàn ngành dệt may.
Những quy định người bán hàng miễn thuế cần tuân thủ

Những quy định người bán hàng miễn thuế cần tuân thủ

Ngày 17/11/2025, Bộ Tư pháp công bố tài liệu thẩm định dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 100/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ về kinh doanh hàng miễn thuế. Theo đó, thủ tục bán hàng miễn thuế cho người xuất cảnh, quá cảnh và khách quốc tế (gọi tắt là hành khách XNC) tại cửa hàng miễn thuế, tàu bay, tàu biển có nhiều quy định mà người kinh doanh và người bán hàng cần biết rõ để không vi phạm pháp luật về thuế.
Hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót có thể được bổ sung trong thời hạn 5 năm

Hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót có thể được bổ sung trong thời hạn 5 năm

Việc sửa đổi khoản 5 Điều 12 dự thảo Luật Quản lý thuế theo hướng giảm thời hạn khai bổ sung hồ sơ khai thuế từ 10 năm xuống 5 năm được Chính phủ đề xuất, nhằm nâng cao trách nhiệm kê khai, đảm bảo quyền lợi người nộp thuế và hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
Rất cần cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển TP. Đà Nẵng

Rất cần cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển TP. Đà Nẵng

Hội đồng thẩm định dự án Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 136/2024/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Đà Nẵng họp chiều 14/11.
Hoàn thiện Biểu thuế ưu đãi Việt Nam-Campuchia giai đoạn 2025-2026

Hoàn thiện Biểu thuế ưu đãi Việt Nam-Campuchia giai đoạn 2025-2026

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt cho giai đoạn 2025-2026 nhằm thực hiện Bản Thỏa thuận thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và Campuchia, bảo đảm chính sách thuế quan tiếp nối liên tục, minh bạch và hỗ trợ giao thương song phương.
Xác lập vai trò đầu mối trung chuyển hàng hóa và đầu tư quốc tế của khu kinh tế chuyên biệt

Xác lập vai trò đầu mối trung chuyển hàng hóa và đầu tư quốc tế của khu kinh tế chuyên biệt

Khu kinh tế chuyên biệt sau khi hình thành sẽ giúp Hải Phòng mở rộng ảnh hưởng ra toàn vùng Đồng bằng sông Hồng, đồng thời củng cố vai trò đầu mối trung chuyển hàng hóa, dịch vụ và đầu tư quốc tế.
Mức thuế 35% chỉ áp dụng cho phần thu nhập vượt 100 triệu đồng/tháng

Mức thuế 35% chỉ áp dụng cho phần thu nhập vượt 100 triệu đồng/tháng

Trước băn khoăn của nhiều người về đề xuất thuế suất 35% trong dự thảo Luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi đang được Chính phủ trình Quốc hội, bà Lê Thị Yến, Chủ tịch HanoiTax khẳng định, mức thuế này chỉ áp dụng cho phần thu nhập vượt ngưỡng 100 triệu đồng/tháng.
Giải pháp hóa giải hộ kinh doanh “mắc kẹt” vì hóa đơn đầu vào?

Giải pháp hóa giải hộ kinh doanh “mắc kẹt” vì hóa đơn đầu vào?

Hộ kinh doanh “mắc kẹt” vì hóa đơn đầu vào không phải là câu chuyện tuân thủ đơn lẻ, mà là phép thử năng lực thiết kế chính sách trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tiền mặt sang kinh tế số, quản trị dựa trên dữ liệu.
Hướng dẫn kế toán cho hộ kinh doanh theo hướng rõ ràng, phù hợp với quy mô doanh thu

Hướng dẫn kế toán cho hộ kinh doanh theo hướng rõ ràng, phù hợp với quy mô doanh thu

Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo thông tư hướng dẫn kế toán cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh thay thế Thông tư số 88/2021/TT-BTC, trong đó sẽ tạo ra hệ thống sổ sách đơn giản, linh hoạt, phù hợp với từng quy mô doanh thu.
Nhận diện thách thức về thời gian thanh kiểm tra và thiếu hụt nguồn nhân lực trong chống chuyển giá

Nhận diện thách thức về thời gian thanh kiểm tra và thiếu hụt nguồn nhân lực trong chống chuyển giá

Việt Nam, với vị thế là một quốc gia đang phát triển, là nước tiếp nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lớn. Tuy nhiên, để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, phòng, chống thất thu ngân sách nhà nước, Việt Nam đang tích cực hoàn thiện khung khổ pháp lý, áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và tăng cường hợp tác quốc tế .
Chuyển đổi số và hoàn thiện chính sách để đại lý thủ tục hải quan phát triển chuyên nghiêp

Chuyển đổi số và hoàn thiện chính sách để đại lý thủ tục hải quan phát triển chuyên nghiêp

Việc sử dụng dịch vụ đại lý thủ tục hải quan (ĐLTTHQ) trong khai báo hải quan thấp so với tổng số tờ khai xuất nhập khẩu là do cơ chế, chính sách. Chính vì vậy, hoàn thiện chính sách, pháp luật về ĐLTTHQ được coi là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển ĐLTTHQ theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay.
Thuế GTGT đối với hàng NK trị giá thấp: Cần hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý

Thuế GTGT đối với hàng NK trị giá thấp: Cần hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý

Việc Chính phủ bãi bỏ quy định miễn thuế GTGT cho các lô hàng NK gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh có trị giá từ 1 triệu đồng trở xuống từ 18/2/2025 là một bước đi phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia trong lĩnh vực thuế, hải quan, không chỉ dừng lại ở việc thay đổi quy định mà cần tập trung hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý.
Xem thêm
cong-ty-thai-son
vietnampost-logistic
toan-phat-group
cong-ty-tnhh-vsl-viet-nam
cong-ty-co-phan-thuong-mai-va-dau-tu-dai-phuc
cong-ty-co-phan-dau-tu-va-phat-trien-lifetech
sunshine-group
ngan-hang-agribank
okini-food
acv-auditscare
vedan
cong-ty-tnhh-scancom-viet-nam
cong-ty-tnhh-vsl-viet-nam
thong-bao
tan-cong-toi-pham-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-hang-gia
kinh-te-tai-chinh-quy-dinh-dang-bai-bao-khoa-hoc
INFOGRAPHIC: Các nhóm hàng đóng góp quan trọng nhất vào kim ngạch xuất khẩu hơn 410 tỷ USD

INFOGRAPHIC: Các nhóm hàng đóng góp quan trọng nhất vào kim ngạch xuất khẩu hơn 410 tỷ USD

Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 410,28 tỷ USD, tăng 16,1% (tương ứng tăng 56,85 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2024.
INFOGRAPHIC: 10 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất trong kỳ 1 tháng 11/2025

INFOGRAPHIC: 10 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất trong kỳ 1 tháng 11/2025

Theo số liệu Cục Hải quan vừa công bố, nửa đầu tháng 11/2025 (1-15/11), kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 19,25 tỷ USD.
Các trường hợp được loại trừ khỏi thuế tối thiểu toàn cầu

Các trường hợp được loại trừ khỏi thuế tối thiểu toàn cầu

Có hiệu lực từ ngày 15/10/2025 và áp dụng từ năm tài chính 2024, Nghị định số 236/2025/NĐ-CP đưa ra các trường hợp được loại trừ khỏi thuế tối thiểu toàn cầu.
INFOGRAPHIC: Yêu cầu và quy trình thực hiện thay đổi phương thức vận chuyển của hàng quá cảnh

INFOGRAPHIC: Yêu cầu và quy trình thực hiện thay đổi phương thức vận chuyển của hàng quá cảnh

Để được thay đổi phương thức vận chuyển đối với hàng hóa quá cảnh, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các yêu cầu và quy trình thủ tục theo đúng quy định.
INFOGRAPHIC: Kê khai phí bản quyền, phí giấy phép khi nhập khẩu hàng hóa

INFOGRAPHIC: Kê khai phí bản quyền, phí giấy phép khi nhập khẩu hàng hóa

Cục Hải quan hướng dẫn về cách kê khai và thời điểm khai báo phí bản quyền, phí giấy phép khi nhập khẩu hàng hóa.
Phiên bản di động