![]() |
| Doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức. Ảnh: Internet |
Nhiều thách thức bủa vây
Nếu như giai đoạn 2020–2022, xuất khẩu bứt phá nhờ nhu cầu tăng cao sau đại dịch, thì từ cuối năm 2023 đến nay, thị trường toàn cầu giảm tốc mạnh, kéo theo sự thu hẹp đơn hàng, gia tăng rào cản kỹ thuật và cạnh tranh gay gắt hơn giữa các quốc gia cung ứng.
Cùng với đó là những diễn biến từ chính sách thuế quan của Mỹ từ đầu năm tác động lên thương mại thế giới. Điều này đang tạo ra những thách thức chưa từng có đối với doanh nghiệp Việt – đặc biệt là các ngành dệt may, da giày, điện tử, gỗ và nông sản.
Theo ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI), trên thế giới, tác động từ tình hình địa chính trị ngày càng phức tạp đang làm thay đổi căn bản cấu trúc của kinh tế toàn cầu, tái định hình chuỗi giá trị và thúc đẩy nhanh hơn xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng.
Các chính sách thương mại của thị trường lớn càng làm gia tăng tính bất định và quá trình phân mảnh kinh tế thế giới. Là nền kinh tế có độ mở lớn, sức chống chịu chưa cao, Việt Nam được dự báo chịu ảnh hưởng nhất định trước những rủi ro gia tăng và bất định của toàn cầu.
Đại diện VCCI nhấn mạnh, mức thuế đối ứng mới của Mỹ được áp dụng với hầu hết các đối tác thương mại, trong đó mức thuế áp dụng với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam là 20%. Diễn biến này sẽ ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu nói chung và đặt ra những thách thức cho xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ cũng gia tăng áp lực cho doanh nghiệp trong nước.
Đặc biệt, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh, trong bối cảnh nhiều thị trường áp dụng hàng rào phi thuế quan, yêu cầu về môi trường, xã hội, quản trị ngày càng khắt khe đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, tăng tỷ lệ nội địa hoá đầu vào giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nhằm đáp ứng quy tắc xuất xứ, minh bạch nguồn gốc…
Trên thực tế, bên cạnh những động từ biến động địa chính trị, các quy định xanh từ EU, Mỹ và nhiều nước phát triển tiếp tục tạo ra sức ép đáng kể cho xuất khẩu của Việt Nam. Các cơ chế như CBAM (cơ chế của EU đánh thuế carbon lên hàng hóa nhập khẩu để ngăn chặn rò rỉ carbon), EUDR (quy định chống phá rừng), hay yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và trách nhiệm xã hội… khiến doanh nghiệp phải tái cấu trúc toàn bộ quy trình sản xuất.
Đối với các ngành nông - lâm sản, yêu cầu truy xuất nguồn gốc chi tiết đến từng lô hàng khiến các hộ trồng trọt và doanh nghiệp thu mua phải đầu tư mạnh vào số hóa và hệ thống quản lý. Doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khi chi phí tuân thủ tăng nhanh, trong khi khả năng tích lũy còn hạn chế.
Cùng với đó, thời gian qua, hàng hóa của Việt Nam phải đối mặt với không ít thách thức trong bối cảnh các thị trường xuất khẩu gia tăng biện pháp phòng vệ thương mại, bên cạnh đó là hành vi cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu.
Theo số liệu do Cục Phòng vệ thương mại cung cấp, chỉ riêng nửa đầu năm 2025, hàng xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với 14 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại nước ngoài mới khởi xướng phát sinh từ 9 thị trường (tăng 1 vụ so với cùng kỳ năm 2024), trong đó Mỹ vẫn là nước điều tra nhiều nhất với 6 vụ việc (chiếm gần 43%).
Nhu cầu giảm mạnh tại các thị trường chủ lực
Bên cạnh các trở ngại nói trên, trong thời gian qua, các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản đều chứng kiến mức tiêu dùng sụt giảm khi lạm phát và chi phí sinh hoạt tăng cao. Người dân thắt chặt chi tiêu khiến doanh nghiệp bán lẻ giảm lượng nhập hàng, kéo theo đơn hàng của doanh nghiệp Việt giảm ở nhiều ngành. Các nhóm hàng như dệt may, đồ gỗ, cao su… chịu ảnh hưởng nặng nề nhất để thích ứng với thực tế.
Việc phục hồi yếu của thị trường thế giới khiến tình trạng “đơn hàng nhỏ, giao gấp” trở thành xu hướng phổ biến, buộc doanh nghiệp phải linh hoạt hơn trong quản trị và dự trữ nguyên liệu. Đây là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp có năng lực tài chính hạn chế.
![]() |
| Cùng với nhu cầu giảm, các doanh nghiệp Việt còn phải chịu áp lực cạnh tranh gay gắt từ khu vực. Ảnh: Internet |
Theo các chuyên gia, bên cạnh nhu cầu giảm mạnh tại các thị trường chủ lực, một thách thức khác đến từ cạnh tranh khu vực ngày càng gay gắt.
Các nước như Bangladesh, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia… đang tích cực điều chỉnh chính sách thuế, tăng ưu đãi và cải thiện hạ tầng logistics nhằm thu hút đơn hàng chuyển dịch khỏi Trung Quốc. Điều này khiến doanh nghiệp Việt phải đối mặt với áp lực cạnh tranh về giá và thời gian giao hàng.
Trong một số ngành, mức độ cạnh tranh leo thang đến mức doanh nghiệp buộc phải chấp nhận biên lợi nhuận rất thấp để giữ khách hàng. Việc duy trì chất lượng trong khi giảm giá khiến nhiều doanh nghiệp rơi vào vòng xoáy bào mòn năng lực tài chính.
Mặt khác, thời gian qua, các doanh nghiệp cũng chịu tác động từ biến động tỷ giá và chi phí logistics.
Tỷ giá USD tăng mạnh trong thời gian dài tạo lợi thế nhất định cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng đồng thời kéo theo chi phí nhập khẩu nguyên liệu tăng lên. Nhiều ngành, nhất là điện tử, dệt may và sản xuất lắp ráp, vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu ngoại nhập, nên biến động tỷ giá làm biên lợi nhuận bị thu hẹp.
Theo các chuyên gia, doanh nghiệp liên quan đến xuất nhập khẩu vừa phải làm sao để có đơn hàng, duy trì sản xuất kinh doanh, tạo lợi nhuận, vừa phải chống chọi với thách thức đến từ tỷ giá.
Tỷ giá tăng, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải chi khoản tiền VND lớn hơn để mua cùng một lượng ngoại tệ để thanh toán hàng hóa. Theo đó, biên lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị bào mòn bởi không dễ tăng giá bán hàng hóa khi muốn cạnh tranh trên thị trường.
Doanh nghiệp xuất khẩu tưởng chừng được hưởng lợi nhưng với các ngành như da giày, dệt may, là những ngành vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu và máy móc, rõ ràng lợi nhuận không thể như kỳ vọng, chưa kể áp lực từ chính sách thuế quan mới đây của Mỹ. Các doanh nghiệp vay nợ bằng USD cũng áp lực với gánh nặng không hề nhỏ.
Hàng công nghiệp chế biến chiếm gần 90% xuất khẩu của Việt Nam, nhưng phần lớn linh kiện sản xuất mặt hàng này lại phải nhập khẩu. Vì thế, khi USD tăng giá, chi phí nhập khẩu nguyên liệu cũng tăng, làm giảm lợi thế cạnh tranh.
Áp lực cũng là động lực chuyển hóa
Chia sẻ về những khó khăn của doanh nghiệp ngành dệt may trong năm 2025, ông Phí Ngọc Trình, Tổng giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm cho biết, cơ hội xuất khẩu của ngành may mặc tại Việt Nam trong đầu năm 2025 rất tiềm năng, dự kiến tăng trưởng 10% so với năm 2024 ước đạt 47-48 tỷ USD, đóng góp lớn vào nền kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, sau chương trình nghị sự về thuế quan của Chính phủ Mỹ và các thách thức như áp lực cạnh tranh, yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, tình hình chiến sự trên thế giới và biến động kinh tế toàn cầu thì ngành dệt may cũng đối diện với một số khó khăn trong xuất khẩu.
"Việc thay đổi chính sách thương mại, tăng thuế nhập khẩu như Chính phủ Mỹ đang áp lên các đối tác trong đó có Việt Nam đang gây tác động rất lớn và tiêu cực với các nhà nhập khẩu Mỹ lâu năm đang nhập hàng của Việt Nam. Ngoài ra một số quốc gia sử dụng việc áp đặt các rào cản thương mại như: đưa vào các tiêu chuẩn xanh… để hạn chế nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của ngành may mặc", ông Trình chia sẻ.
Theo TS Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economia Việt Nam, mặc dù đạt thành công ấn tượng trong xuất khẩu, song tình hình thực tế cho thấy, biến động ngày càng phức tạp của kinh tế toàn cầu, các thách thức trong hoạt động thương mại quốc tế trong thời gian vừa qua (như các vụ kiện chống phá giá, rủi ro về thuế như thuế đối ứng…); ở trong nước, yêu cầu phải thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu, cách thức tiếp cận thị trường... đòi hỏi tư duy mới của các cơ quan quản lý và vai trò tiên phong của doanh nghiệp.
![]() |
| Sức ép từ thị trường cũng chính là phép thử bản lĩnh doanh nghiệp Việt. Ảnh: N.H |
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng đánh giá, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước áp lực phải đổi mới để duy trì tăng trưởng và cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Theo các chuyên gia, thách thức từ sức ép thị trường xuất khẩu đang là một lực cản rất đáng kể đối với xuất khẩu Việt Nam. Những rào cản về thuế, điều tra thương mại, chi phí logistics, yêu cầu môi trường ngày càng cao… đều đặt ra bài toán khó cho doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách.
Tuy nhiên, sức ép từ thị trường cũng chính là phép thử bản lĩnh doanh nghiệp Việt, buộc doanh nghiệp phải tư duy dài hạn hơn, nỗ lực và chủ động hơn. Với sự chủ động trong chiến lược, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có cơ hội không chỉ ứng phó mà còn chuyển hóa sức ép thành động lực để phát triển bền vững.