Hai chiều của chính sách
Chính sách thuế XNK tại Việt Nam đã và đang tạo ra nhiều tác động tích cực đến quá trình phát triển logistics xanh và chuỗi cung ứng bền vững, đặc biệt trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Các nghiên cứu chỉ rõ, một trong những chính sách có hiệu quả rõ rệt nhất là miễn giảm thuế NK đối với thiết bị tiết kiệm năng lượng, xe tải điện, hệ thống tái chế và công nghệ xử lý môi trường.
Trong giai đoạn 2020–2023, nhiều DN logistics và sản xuất đã được hưởng ưu đãi thuế NK đối với phương tiện vận tải sử dụng năng lượng sạch và thiết bị tự động hóa tiết kiệm nhiên liệu, giúp giảm 10–15% chi phí đầu tư ban đầu. Điều này không chỉ thúc đẩy đổi mới công nghệ, mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa trong toàn chuỗi cung ứng khi các nhà cung cấp, vận tải và phân phối đều có xu hướng đầu tư vào giải pháp “xanh hóa” hệ thống logistics.
![]() |
| Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa tại cụm cảng Sơn Dương - Vũng Áng (Hà Tĩnh). Ảnh: H.Nụ |
Ngoài ra, các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cho các ngành có hoạt động bảo vệ môi trường, tái chế và tiết kiệm năng lượng đã giúp khuyến khích DN tuân thủ và đạt các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 14001, ISO 50001.
Theo Bộ Tài chính, các DN được giảm 10% thuế TNDN trong 15 năm nếu đầu tư vào lĩnh vực công nghệ xanh và miễn thuế 4 năm đầu khi đạt chứng nhận quản lý môi trường. Nhờ đó, nhiều DN trong lĩnh vực logistics, sản xuất bao bì và XK đã xây dựng hệ thống quản trị phát thải và chuyển đổi phương thức vận tải từ đường bộ sang đường thủy – đường sắt, góp phần giảm 8% đến 12% lượng khí thải CO₂/năm.
Đáng chú ý, chính sách thuế thúc đẩy DN đáp ứng tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Điển hình, trong ngành thủy sản XK, chính sách giảm thuế NK máy móc và vật tư xử lý nước thải đã giúp nhiều DN đạt được chứng nhận môi trường EU (EU Eco-Label) và chứng nhận bền vững của Hội đồng Quản lý biển (MSC) và Hội đồng Quản lý Nuôi trồng (ASC) sau khi EVFTA có hiệu lực.
Điều này minh chứng rằng chính sách thuế không chỉ tác động đến chi phí sản xuất, mà còn đóng vai trò cầu nối giữa yêu cầu thương mại quốc tế và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.
Còn theo các chuyên gia trong lĩnh vực cung ứng, logistics, chính sách thuế môi trường linh hoạt có thể đóng vai trò đòn bẩy điều tiết, vừa kiểm soát phát thải, vừa khuyến khích đầu tư vào năng lượng sạch và hạ tầng logistics thông minh.
Ví dụ, việc áp dụng thuế carbon cho nhiên liệu hóa thạch đi kèm miễn giảm thuế nhập khẩu cho phương tiện điện hoặc hybrid sẽ tạo “hiệu ứng kép”: tăng chi phí đối với hoạt động gây ô nhiễm và giảm chi phí cho giải pháp xanh.
Theo dữ liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2023, nếu Việt Nam giảm được 10% phát thải từ vận tải thông qua ưu đãi thuế xanh, kim ngạch XK có thể tăng 2– 3%/năm, tương đương 6–8 tỷ USD. Điều này chứng minh rằng cải tiến chính sách thuế hướng đến logistics xanh không chỉ có lợi cho môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế – thương mại trực tiếp.
Từ đó, có thể thấy chính sách thuế XNK là công cụ quan trọng trong chiến lược “xanh hóa thương mại và logistics”, góp phần đưa Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Đồng bộ hệ thống thuế xanh
Mặc dù Việt Nam đã triển khai hệ thống hải quan một cửa quốc gia, song theo bà Nguyễn Chung Thuỷ, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, thực tế nhiều DN phản ánh rằng quy trình hoàn thuế và xác định ưu đãi xanh vẫn phức tạp, thiếu minh bạch. Thủ tục kéo dài làm tăng chi phí lưu kho, chậm luân chuyển hàng hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả logistics.
![]() |
| Công chúc Hải quan hướng dẫn doanh nghiệp tra cứu thông tin. |
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ rõ, việc thiếu đồng bộ trong hệ thống chính sách thuế xanh. Cụ thể, hiện chính sách thuế xanh chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, và Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Bởi mỗi bộ ban hành các văn bản hướng dẫn riêng, đôi khi chưa thống nhất về phạm vi và tiêu chí “hàng hóa xanh”. Điều này dẫn đến tình trạng chồng chéo trong áp dụng ưu đãi thuế và khó khăn trong thực thi tại cấp DN.
Ngoài ra, chi phí tuân thủ cao, đặc biệt đối với DN vừa và nhỏ – chiếm hơn 97% tổng số DN logistics gặp khó khăn trong việc chuẩn bị hồ sơ chứng minh điều kiện hưởng ưu đãi thuế xanh. Họ phải chịu chi phí kiểm toán môi trường, thẩm định công nghệ, và chứng nhận tiêu chuẩn ISO… Những chi phí này làm giảm động lực chuyển đổi, khiến nhóm DN vừa và nhỏ khó tiếp cận ưu đãi so với DN lớn.
Những hạn chế này cho thấy cần thiết phải cải cách thể chế theo hướng minh bạch, ổn định và lấy DN làm trung tâm, đồng thời tăng cường năng lực giám sát và hỗ trợ kỹ thuật cho DN trong quá trình chuyển đổi xanh.
Để chính sách thuế XNK luôn là công cụ thể chế trọng yếu trong việc thúc đẩy xanh hóa chuỗi cung ứng và phát triển logistics bền vững tại Việt Nam, trong đó cần hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành, đơn giản hóa thủ tục và nâng cao năng lực tuân thủ cho DN vừa và nhỏ.
Đồng thời, cần thiết lập hệ thống phân loại hàng hóa xanh, quy định tiêu chí rõ ràng để áp dụng ưu đãi thuế NK, thuế TNDN và thuế môi trường; áp dụng công nghệ số (hải quan điện tử, blockchain, dữ liệu lớn) để minh bạch hóa quy trình ưu đãi thuế, giảm chi phí giao dịch và thời gian thông quan.
Đặc biệt, tạo quỹ hỗ trợ thuế xanh hoặc hoàn thuế nhanh cho DN nhỏ đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải; điều chỉnh thuế suất dựa trên mức phát thải thực tế và tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường của Tổ chức Thương mại thế giới, EVFTA và RCEP; sử dụng nguồn thu từ thuế môi trường để phát triển hệ thống kho vận, cảng và vận tải đa phương thức thân thiện môi trường.